Hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với một dịch bệnh lan nhanh và nguy hiểm đó là dịch SARS Cov 2 chỉ với riêng tổng số ca nhiễm ở nước ta đã là 40 757 và số ca tử vong là 225. Trong số 31 783 ca đang điều trị có rất nhiều ca cần sử dụng máy tạo oxy khi học bị suy phổi nặng. Nói đến máy tạo oxy chúng ta thường gặp nó trên báo, đài, internet,… rằng nước này đang khan hiếm oxy, hay nước kia mua nhập khẩu oxy,…Vậy, máy tạo oxy hoạt động như thế nào và cần được sử dụng như nào để có được hiệu quả tốt nhất?

Máy tạo oxy hay gọi Oxygen Concentrator là một thiết bị có chức năng làm giàu oxy từ khí trời (làm đậm đặc và tăng nồng độ oxy) xung quanh nó với nồng độ oxy ra khoảng 90 đến 95%. Có thể nói rằng là một thiết bị sử dụng để cung cấp oxy cho bệnh nhân mà không cần dùng tới oxy hóa lỏng hay bình oxy- thứ vốn rất nguy hiểm và bất tiện khi sử dụng tại nhà hay các cơ sở y tế nhỏ, không đảm bảo an toàn và cũng như hiệu quả kinh tế.
Trong nguyên lý máy tạo oxy truyền thống thì nguyên tắc của máy tạo oxy là hút khí tự nhiên vào máy sau đó hấp thụ và xả khí nitơ ra ngoài, giữ lại khí oxy cung cấp cho bệnh nhân mắc bệnh qua một đường khác trong môi trường không khí tự nhiên, hàm lượng oxy chiếm khoảng 21%, còn lại là nitơ và các khí khác (79%).. và để hấp thụ nitơ, người ta thường sử dụng các hạt Zeolite. Với nguyên lý riêng của máy tạo oxy thì nó nhìn chung gồm có thân máy là máy chính để tạo ra oxy; bình tạo ẩm dùng để ẩm khí oxy vì nó thường tạo ra khí oxy chủ yếu khô và ngoài ra còn có dây dẫn để đưa oxy đến mặt nạ, mũi.

Theo nguyên lý của máy tạo oxy thì không khí được hút qua bộ lọc, từ đó đưa vào một máy nén khí ( mà áp suất ở đây vào khoảng 2-3 at), khi được làm mát xong không khí dưới dạng khí nén sẽ đi qua hệ thống van 4 chiều. Ở đây hệ thống van này lần lượt đóng mở nhằm đưa không khí nén để dồn vào bình, đồng thời thúc đẩy nitơ do hạt Zeolite giữ lại trong hai bình là molecular sieve bed ra ngoài, đẩy oxy mới vào bình tích áp chứa oxy. Ở nguyên lý máy tạo oxy này, chu trình, thời gian đóng mở của van được điều khiển tự động bằng mạch điện tử dựa trên tính toán về dung tích của bình, lưu lượng hay áp lực khí… Tiếp đó thì không khí được bơm vào bình với 1 áp suất thích hợp của nó. Khí nitơ sẽ bị hóa chất (hạt Zeolite) hấp thu, khi đạt áp suất quy định, oxy sẽ sẽ được đẩy vào bình chứa (bình tích áp oxy) làm áp suất trong bình chứa hạt zeolite giảm đi. Khi đó làm giảm đến một áp suất nhất định, van sẽ đóng đường nạp oxy và xả khí N vừa hấp thu ra ngoài để tái tạo hóa chất trong quá trình hoạt động của máy tạo oxy. Cứ như vậy theo nguyên lý máy tạo oxy thì không khí nén được đưa qua hệ thống van, bình lọc và tạo ẩm để đưa oxy ra cho bệnh nhân sử dụng. Nhưng trong đó có một phần được trích lại qua sensor oxy để theo dõi hàm lượng oxy nếu thấp quá 60% sẽ được máy báo động để sửa chữa hoặc thay hạt lọc… Do theo nguyên lý máy tạo oxy trên, khi máy hoạt động sẽ có các âm thanh, tiếng “bụp” và “xè”. Tiếng “bụp” là của hoạt động khi nén áp suất, còn tiếng “xè” là của hoạt động khi xả khí nito ra ngoài tái tạo hóa chất. Có thể nhận thấy rằng trong nguyên lý máy tạo oxy thì thời gian đóng mở van rất quan trọng cho tỷ lệ đầu ra của oxy.

Từ đây chúng ta có thể nhận thức rõ nguyên lý của máy tạo oxy để hiểu hơn cách thức “ vận hành’’ mà nó đã mang lại các tác dụng tốt cho người bệnh. Tuy nhiên theo nguyên lý của máy tạo oxy thì chúng ta cần sử dụng nó đúng cách và hợp lý theo khuyến cáo.